Thứ Tư, 23 tháng 1, 2008

Trà Vinh, những đêm gió bấc

Hàng chục năm qua, cứ hễ vào những ngày lộng bấc, nhất là vào buổi tối, là tôi lại nhớ tới thị xã nhỏ bé đầy bóng sao dầu cổ thụ Trà Vinh. Tôi nhớ đến căn nhà mái tôn thấp, nằm lọt thỏm dưới hai “con đê” cao là đường Lê Quang Liêm (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai) và đường Trần Quốc Tuấn (đường số 2). Đó là căn nhà tôi trọ học những năm phổ thông trung học. Cùng với tôi còn có năm ba anh em đồng hương Cầu Kè “ăn cơm tháng” tìm lấy cái chữ cho cuộc đời mình. Vì vậy căn nhà rộn rịp vào ban ngày tuổi trẻ chúng tôi. Nhưng đêm xuống lại thanh vắng bởi mỗi đứa “chiếm ngự” một góc với cuốn tập học bài hoặc cây viết trên tay giải bài toán hay viết bài văn nào đó. Càng vào sâu đêm, sự thanh vắng càng rõ và buồn nhất là trong những đêm gió bấc cuối năm.


Căn nhà ngoài nằm dưới “thung lũng” của một ngã ba đườngnày còn lọt thỏm dưới “rừng” sao dầu dày mịt xung quanh. Những đêm cuối năm, gió bấc oằn oại kéo lê tiếng rít ghê người trên những ngọn sao dầu già cỗi nghe buồn tê tái. Một vài cơn mưa muộn lành lạnh phất vô lòng. Dài trên đường, tiếng gõ mì nao nao từ xa vọng lại, ngày một gần hơn. Âm thanh hai thanh tre chạm lắc cắc vào nhau sao mà não nuột. Bụng dạ đói cồn cào. Vậy là kêu một tô, nhấm nháp vị ngọt ngon của tinh bột hòa trong mấy miếng thịt bé tí nóng hổi nước lèo húp ấm cả thần hồn.

Đêm càng về khuya, tiếng gió lùa trên tàng sao dầu cổ thụ càng buồn. Rồi, không sót đêm nào, trong không gian tê lạnh ấy, có tiếng đàn ghi ta bập bùng, phát ra từ mấy ngón tay của một người sau hè nhà tôi trọ. Đó là một anh chàng trẻ tuổi, ban ngày đi đâu không biết, chỉ xuất hiện vào tối khuya như thế nầy. Tiếng đàn anh như đốm lửa cháy sáng lập lòe trong đêm vàng vọt ánh đèn phố thị, vừa làm ấm lòng người xa xứ như tôi vừa làm nó lạnh hơn với nỗi buồn không tên gọi. Tiếng đàn ghi ta xa vắng mênh mông qua từng âm điệu boléro dập dờn sóng nước. Anh là nghệ sĩ nghiệp dư “chuyên trị” nhạc Trúc Phương. Hết “Nửa đêm ngoài phố”, “Tàu đêm năm cũ”, “Hai chuyến tàu đêm”, “Mưa nửa đêm”, thì tới “Đò chiều”, “Bóng nhỏ đường dài”. Anh cứ dẫn lòng tôi đi khắp mọi miền đất nước, các chuyến xe, chuyến đò với những buồn vui tình đời, tình người, tình yêu miên man bất tận. Hết đàn, anh lại ca. Tiếng ca trầm ấm của anh, cũng như tiếng đàn, làm lòng tôi chùng xuống. Không chùng xuống sao được, khi: “…Thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa vào đời. Đường phố vắng đêm nao quen một người. Mà yêu thương trót trao nhau trọn lời (…) Nửa đêm lạnh qua tim. Giữa đường phố hoa đèn. Có người mãi đi tìm. Một người không hẹn đến. Mà tiếng bước buồn thêm”... Tiếng hát anh hòa cùng tiếng ghi ta, tiếng gió hú trên cao cùng những cơn lạnh lùa que khe vách lá thấm vào tôi biết bao nỗi niềm. Đêm thực tại và đêm trong ca từ Trúc Phương như hòa vào nhau làm một. Dù chưa biết yêu nhưng tôi cũng nghe yêu lắm rồi những cô thiếu nữ xuân thì lãng mạn, gây buồn trong ca từ nhạc sĩ đồng hương này: “Đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn. Đôi khi nhầm lỡ đánh mất ân tình cũ. Bao năm qua rồi còn nuối tiếc. Nghe lòng đầy giá buốt. Thương nhau rồi. Xa nhau rồi. Một lần dang dở ấy. Đêm lạnh vui với ai?”… Âm hưởng của tiếng đàn, giọng hát, lời ca như càng lúc càng đi sâu vào lòng tôi. Nó thẩm thấu từ ấy cho tới tận bây giờ, khiến tôi dù đi đâu, ở đâu, những đêm gió bấc tràn về rào rạt trên tàng cây cao là lòng tôi buồn rượi, nhớ về Trà Vinh những năm 1960 ấy. Mộng mị. Lãng mạn. Xa vời. Nhưng không nguôi luyến nhớ!

Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2008

LÀNG NGHỀ VÀO XUÂN

Vợ chồng anh Hiển từ Australia đưa con gái và con rể lần đầu tiên về Việt Nam ăn Tết. Ghé nhà tôi, anh chị trang trọng mở bọc giấy khoe. Cứ tưởng vật gì, té ra là chiếc muỗng cà phê được chế tác bằng gỗ dừa. Cầm chiếc muỗng trong tay, anh Hiển bảo rằng loại hàng mỹ nghệ này được người Úc ưa chuộng rồi nhờ tôi đưa đi tham quan cái làng nghề đó.

Chiếc thuyền du lịch vượt sông Tiền. Sóng nước mênh mông. Cồn Phụng, cửa ngõ vào Bến Tre, cây xanh và những hàng dừa rủ bóng ven bờ hiện ra trước mắt. Tàu cặp bến. Đi dài theo con đường đất nhỏ, chẳng mấy chốc, chúng tôi đã nghe tiếng máy âm âm vọng tới. Đó là “hơi thở” của ngôi làng gồm 10 cơ sở sản xuất sản phẩm mỹ nghệ bằng gỗ dừa. Anh Hữu Lộc, hướng dẫn viên Trung tâm Điều hành du lịch (Công ty cổ phần Du lịch Bến Tre) cho biết, làng nghề ở đây hoạt động suốt các ngày trong tuần, phục vụ khách tham quan. Trong gian nhà mái tôn bộn bề những miếng gỗ dừa, những vụn dăm bào, mấy người thợ đang gò mình chăm chút từng công đoạn sản xuất. Mũi đục bén ngót trên tay chàng trai trẻ ăn ngọt vào sớ gỗ một cách cẩn trọng tạo thành mặt lõm chiếc vá bới cơm. Xong phần “làm thô”, chiếc vá nhanh chóng được chuyển qua tay người thợ làm bóng. Chỉ vài thao tác, vân gỗ dừa dần hiện lên và những vân ấy càng đẹp hơn sau khi được một người thợ khác đánh bóng bằng sáp.


Sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ dừa.

Michel, con rể anh Hiển rất ngạc nhiên, luôn tắc lưỡi trầm trồ vì không ngờ cái thân dừa tưởng chừng vô dụng lại được chế biến thành một sản phẩm đẹp. Cậu ta rất thích thú khi đứng trước tủ kính trưng bày các sản phẩm. Cứ hết cầm con khỉ bịt tai, vớ con khỉ bịt mắt, rồi lấy con khỉ bụm miệng, Michel tủm tỉm cười hoài. Anh Hiển nói với con rể bằng tiếng Việt: “Mấy con khỉ rắn mắt”. Hai cha con cười vang, khoái trá. Anna Hương, con gái anh Hiển, đứng cạnh chồng, cứ hích cùi chỏ vào hông chàng trai Úc như khuyến khích cậu ta mua cho mình mấy chiếc kẹp tóc bằng gỗ dừa. Cô bảo, về bển chắc chắn “không đụng hàng”. Anh Hiển thì nhanh tay lựa và bảo cô gái bán hàng gói cho mình bộ ấm trà xinh xắn như món đồ chơi. Riêng chị Hiển đang lựa các muỗng, đũa, vá với vẻ mãn nguyện khi chọn những vật dụng nhà bếp “độc chiêu”, hãnh diện những khi có khách. Rời cơ sở, vợ chồng, con cái anh Hiển mang lỉnh kỉnh những gói hàng mà vẫn còn cứ tiếc chưa mua được đủ đầy các loại sản phẩm. Riêng Anna Hương thì cứ chắc lưỡi ân hận vì quên chưa mua được chiếc giỏ đan bằng cọng lá dừa mà cô cứ trầm trồ đẹp ơi là đẹp!
***
Chiếc xe 12 chỗ ngồi chạy êm ru trên con đường tráng nhựa phẳng phiu. Hai bên đường xanh ngút một màu xanh no ấm của hàng bao nhiêu loại cây ăn trái. Vốn được sinh ra trên đất nước kanguroo, nên Anna Hương chốc chốc lại kêu lên: “Ba ơi, đẹp quá kìa!”. Theo tay chỉ của cô, là những vườn cây xanh nổi màu đỏ quyến rũ của trái chôm chôm. Bỗng cô hét toáng lên: “Ôi, trái gì vậy, ba?”. Anh chị Hiển bật cười: “Sầu riêng, con à!”. Những trái cây đầy gai nhọn được bày bán dài theo hai bên đường. Theo yêu cầu của Anna Hương chúng tôi ghé một nhà vườn. Trên những liếp nền đất sạch sẽ, sầu riêng được trồng ngay hàng thẳng lối, cành nào cành nấy lủng lẳng những trái. Nhìn thấy một trái treo tòn ten trên cành bởi sợi dây ni-lông, người chủ vườn nhanh nhẹn leo lên. Một nhát dao cắt dây, xuống đất, một mũi dao tách vỏ, mấy múi sầu riêng có màu vàng bắt mắt ngoan ngoãn nằm yên trong lớp vỏ mỏng dánh hiện ra. Mỗi người cầm một múi mềm mụp, dầy cộm, không dính tay, như được phủ lớp ni-lông, cho vào miệng. Mùi sầu riêng thơm lựng thoảng vào mũi. Miếng sầu riêng tan trên mặt lưỡi thấm sâu đốc giọng cái mùi đặc trưng. Tuyệt vời!


Sầu riêng Cái Mơn


Anh Hữu Lộcgiới thiệu, ngoài việc nhà vườn cho sầu riêng ra trái quanh năm, Cái Mơn (Chợ Lách) còn có nhiều vườn bòn bon, măng cụt, xoài cát Hòa Lộc trái to vị ngọt thanh, bưởi da xanh ngọt giòn… Được hình thành bởi ba dãy cù lao nên ưu thế số một của Bến Tre là vườn. Vườn ở xứ này được lập từ thời Tự Đức. Cái Mơn còn có nghề chiết, tháp cây ăn trái nổi tiếng. Ngày nay, người Cái Mơn chuyên tâm sản xuất cây giống để lái nơi khác đến “ăn hàng” đưa đi khắp nơi tiêu thụ.
Cái Mơn còn có vườn kiểng. Từ xưa, kiểng được xem là sáng tạo của miệt vườn. “Người ta nuôi và uốn chúng với những đường nét, quan niệm thẩm mỹ khá độc đáo, khác lối uốn kiểng của người Trung Hoa, của miền Trung hoặc miền Bắc. Kiểng được người dân nơi đây uốn theo kiểu xuy phong, mẫu tử với những tàn tiêu biểu cho tam tùng tứ đức hoặc tam cang ngũ thường, trên chót là ba nhánh nhỏ tiêu biểu cho nhật, nguyệt, tinh. Nhánh kiểng phải “hô, ứng”, nhánh này nghinh thiên thì nhánh kia phải yểm địa…”. (*). Ngoài ra, Cái Mơn còn có nghề uốn kiểng thú. Đi trong những khu vườn yên ả, nhìn bàn tay tài hoa của người thợ uốn, bẻ, sữa, cắt từng nhánh cây, Michel không thể ngờ trên đời có một thú chơi với những con thú “lông xanh” như: nai, cá hóa rồng, ngựa, đặc biệt là con giáp của năm âm lịch, loại hàng được khách Singapore, Hồng Công ưa thích.


Kiểng thú


Trở về Cần Thơ, anh Hiển cứ tiếc nuối không có điều kiện tham quan hết các làng nghề ở Bến Tre, nơi còn có nhiều cơ sở sản xuất kẹo dừa thơm vị trái cây; bánh phồng sữa có thể ăn ngay không cần nướng có vị ngọt, béo, thơm mùi sầu riêng, lá dứa; và “bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc” nổi tiếng cả nước… Phải nói rằng, làng nghề ở Đồng bằng sông Cửu Long phân bổ đều khắp nông thôn, thu hút hàng chục ngàn lao động, lưu giữ bản sắc văn hóa của cha ông. An Giang có dệt thổ cẩm của người Chăm ở Phủm Xoài (Châu Phong, Tân Châu), của người Khmer ở Sray Sakoth (Văn Giáo, Tịnh Biên), làng cá bè ở Châu Đốc. Phú Quốc (Kiên Giang) với nghề khai thác và chế biến nước mắm cá cơm có hương vị thơm ngon đặc biệt, đến đỗi từ điển La Rousse của Pháp phải đưa từ nuoc-mam vào. Vĩnh Châu (Sóc Trăng) có nghề dệt chiếu gia truyền ở Cà Săng. Gò Đen (Long An) nổi tiếng hàng trăm năm nay với rượu nếp lứt, đặc biệt là nếp trắng cho rượu ngọt đậm, thơm lừng, nước trong, sủi tăm, không có màng bám thành ly. Trà Vinh thì được nhiều người biết đến với nghề làm bánh tráng ở Lương Hòa (Châu Thành) nằm cạnh danh thắng ao Bà Om. Đặc biệt là những nghề theo con nước lớn. Đó là làng đóng ghe xuồng ở Ngã Bảy (Thị xã Tân Hiệp, Hậu Giang) và An Bình (quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ), chuyên đóng xuồng tam bản phục vụ dân chài lưới, đi câu, vận chuyển lúa gạo, thủy sản, trái cây… TP Cần Thơ có xóm lưới Thơm Rơm, làng lọp tép Thới Long (Ô Môn), lò luộc tép Thạnh Quới (Thốt Nốt) hoạt động nhộn nhịp mỗi năm từ tháng 5 đến tháng 9 âm lịch…
Với cảm quan của người nước ngoài, Michel nói một cách khách quan: đa dạng và phong phú, là ưu thế của Đồng bằng sông Cửu Long có thể hấp dẫn khách du lịch. Các làng nghề cần phải được sắp xếp một cách khoa học, nhà xưởng phải được xây dựng theo truyền thống, khang trang, sạch đẹp. Sản phẩm tạo ra phải ngày càng khéo léo, tinh xảo, có giá trị sử dụng trong đời sống, chứ không đơn thuần là vật trang trí. Thiết kế, thay đổi kiểu dáng mẫu mã cần phải được quan tâm, giải quyết tốt đầu ra… Có như thế, diện mạo của các làng nghề của ĐBSCL sẽ được thay đổi, vừa giữ được bản sắc độc đáo không nước nào có vừa mang tính hiện đại, hấp dẫn du khách và phát triển bền vững hơn.
Qua nhận xét của Michel, tôi chợt nhận ra rằng lâu nay có một tiềm năng du lịch chưa được chú ý lắm, dù đã có một vài nơi khai thác. Nhưng rõ ràng nếu lập các tua du lịch làng nghề một cách nguyên xi thì chưa được, cần phải có kế hoạch dài hơi và liên kết cả vùng. Khi đó, làng nghề Đồng bằng sông Cửu Long mới thực sự vào xuân.

-----------
Sơn Nam, “Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa & Văn minh miệt vườn”, Nhà xuất bản Trẻ tái bản, 2004, tr. 327.
--------

tuyetdieu.com

Anh bạn tôi là nhà báo, quen sử dụng máy đánh chữ từ khi còn trẻ. Khi tòa soạn bước đầu kế hoạch “vi tính hóa”, anh chẳng màng quan tâm, bởi “lưng lửng quan” nên anh đâu phải có bài theo định mức hằng tháng mà ban biên tập đã đề ra cho toàn bộ phóng viên. Tết năm đó, tổng biên tập yêu cầu anh viết báo xuân. Thì viết. Nhưng khi nhận lại bài viết, anh thấy nơi góc trái đầu trang, gần bên tít bài, có dòng chữ: “Nhanh chóng xóa mù vi tính” của tổng biên tập. Tự ái, anh dành ra một buổi học và thực tập cách nạp liệu. Dễ ợt. Phấn khởi, anh học cách save bài cùng một vài yêu cầu bức thiết mà anh cần biết để giải quyết những mắc mứu gặp phải khi biên tập bài cộng tác viên trên máy. Dần dà anh cũng học được khá nhiều điều bổ ích từ máy tính, do mấy phóng viên đệ tử chỉ dẫn.

Các bạn khuyên anh nên học một khóa vi tính nhưng anh chẳng quan tâm vì nghĩ mình chẳng sử dụng máy tính nhiều học làm chi cho mất công, nhất là cái đầu của mình như cái băng nhão, dung nạp những điều học được chẳng là bao. Phí công, hoài của!

Rồi cũng đến ngày anh về hưu. Lương hưu chẳng là bao, lại thiếu mất món tiền phụ cấp trách nhiệm khá lớn, anh phải viết bài gởi báo để kiếm thêm thu nhập. Vậy là anh mua cái USB, rồi lẩm nhẩm, thực hành các thao tác save bài từ máy vô USB và ngược lại, mất mấy buổi trời mới nhớ. Công việc đòi hỏi anh phải vô Internet mới có điều kiện tốt gửi bài cho các báo ở Thành phố Hồ Chí Minh, ở Hà Nội, bởi gửi bài bằng trang in hiếm khi được các họ sử dụng. Vì, bài viết nếu sử dụng được phải nạp liệu lại, sửa morasse lu bu, mất thời giờ rất nhiều. Vậy là phải học sử dụng Internet. Trầy trật mãi rồi anh cũng được mấy đứa con kềm cặp thành công. Gửi bài qua email quá tiện lợi. Dù đến tòa soạn “báo nhà” chẳng bao xa nhưng với phương tiện này anh khỏi mất công mặc quần áo, phóng xe đi. Bài báo và ảnh như bóng với hình. Đó là yêu cầu số một của các báo. Không có ảnh, bài hay cỡ nào cũng “vứt”! Nên anh phải sử dụng máy ảnh kỹ thuật số. Cái này dễ, chỉ cần đưa máy ảnh lên ngang mắt cân đối bố cục là bấm. Tuy nhiên để lưu ảnh vào máy tính anh phải nhờ con. Nhiều bữa không có đứa con nào ở nhà để nhờ lưu ảnh vào máy tính để gửi đi ngay, anh bực bội vô cùng. Không lẽ thúc thủ quy hàng? Anh nghĩ chắc nó cũng giống như save bài từ USB vô máy tính. Vậy là anh loay hoay làm thử. “Rùa” dẫn đường, anh thành công mỹ mãn.

Viết báo đòi hỏi phải có nhiều tư liệu tham khảo bổ sung nhằm nâng cao giá trị bài viết. Các bạn nói “gõ” Google một cái là có nhóc. Anh thử làm, quá đạt yêu cầu. Hàng bao nhiêu núi tư liệu giúp anh giải quyết nhu cầu bức xúc, điều mà trước đây anh phải ngồi hàng giờ, thậm chí có khi cả mấy ngày kiếm cho ra quyển sách, trang sách có tư liệu đó. Mà sách nhà anh thì đâu phải ít, lại “được” sắp xếp vô cùng lộn xộn bởi vợ và các con anh sau khi đọc xong! Như vậy không mất hứng viết cái mới lạ! Anh khoan khoái cười mỉm chi, từ nay ta đã có chiếc đũa thần, chỉ cần gõ một cái là nó “hóa” thành phép lạ ngay. Vậy là hàng bao nhiêu tạp chí, sách, báo tư liệu của anh trong phút chốc đã được cân ký lô cho đỡ chật nhà, bụi bặm, mối xông, vài ba tháng lại phải đem phơi nắng một lần nữa chứ. Tuyệt vời! Tuyệt vời hơn là vô Google, gõ bút danh anh một cái, hàng bao nhiêu bài báo của anh đều được sắp hàng tới mấy trang. Cha, cả thế giới đọc, sưu tra bài viết của mình. Hãnh diện thật. Khoái nhất là mấy bài viết của anh đã “mất tích” từ lâu, nằm chình ình trên website của một báo nào đó, chỉ cần “nhấn nhấn” mấy phát, a lê hấp nó đã chễm chệ vô kho lưu trữ của máy tính nhà anh rồi. Trên net, hầu như không thiếu tờ nào nên anh đọc “chùa” thoải mái. Tin tức cập nhật liền tù tì, nóng hổi, báo giấy làm sao bì. Hồi anh bị mất điện thoại, tính mua cái mới, con anh mở máy tính, truy cập net, ê hề hàng bao nhiêu chủng loại, từ giá bèo tới giá cứng, lại còn ghi rõ các chức năng của nó. Lạ một điều, truy cập tư liệu qua Google hoặc Yahoo! nếu gõ trật một chi tiết, hoặc sai chính tả, như có một con ma, nó nhắc nhở anh ngay để làm lại tốt hơn!...

Có Internet, đã hơn nữa, là anh còn liên lạc được với bất kỳ người bạn nào, ở bất cứ địa phương nào, kể cả nước ngoài, miễn anh chị ta có Internet. Cứ thăm hỏi nhau thoải mái, chẳng tốn là bao so với điện thoại. Hình ảnh chụp chung trong chuyến đi chơi đâu đó, về mail qua mail lại, lưu trong máy lâu lâu mở coi, còn được phóng lớn theo yêu cầu nữa chứ, sướng nào bằng. Sướng nữa là vừa viết bài vừa nghe nhạc từ máy tính. Ái chà, có người còn nói gắn cái webcam gì đó khi nói chuyện với nhau sẽ thấy được mặt nhau. Cái mới “độc”!

Với số vốn sử dụng máy tính và Internet như vậy, đi đâu anh cũng quảng báo sự tuyệt vời của nó với mấy ông bạn già. Nhưng kỳ cục, chẳng thấy lão nào hưởng ứng. Ai cũng ừ hử cho qua tang lề. Bực thật. Ngẫm nghĩ, anh mới biết, té ra cái đầu của họ đã “nhão” nên rất ngán sử dụng công cụ hữu ích hiện đại này. Giống như anh hồi trước kia thôi, không nhớ được nhiều động tác ra lệnh máy tính nên rất khổ sở mỗi khi ngồi vào máy. Rồi mọi bức bối cũng trở nên dễ chịu, khi anh bạn già của anh phát hiện một phương pháp học nhanh và dễ nhớ. Đó là học “tắt”, học với mấy anh làng nhàng, bấp bỏm vài ba “chiêu” sử dụng máy như mình, cách học “bình dân”. Còn làm theo cách dạy “hàn lâm” của mấy tay siêu máy tính thì dứt khoát sẽ khiến ta “nản lòng chiến sĩ”, “buông súng” là cái chắc vì phải đi qua nhiều công đoạn lu bu! Nhờ vậy mà anh học được khá nhiều điều để sử dụng máy tính được nhiều hơn. Mà máy tính thì còn có hàng hà sa số công năng khác mà anh chưa nắm hết, vừa tốt vừa xấu, đủ cả. Nó là thứ công cụ được anh tạm gọi là tuyetdieu.com./.