Từ Quốc lộ 1 rẽ vào phía bắc Mũi Né (Thành phố Phan Thiết, Bình Thuận) là con đường nhựa uốn lượn quanh co qua những dốc đồi với cảnh quan hai bên đường ngoạn mục. Mùa mưa, những ngọn đồi thấp dờn xanh những ngọn cỏ lún phún. Như thảo nguyên. Mùa nắng một màu đỏ hoang dại của đất sỏi khô cằn miền Trung trải dài ngút mắt. Phía chân trời xa nhấp nhô những ngọn núi xanh úa vàng mùa nắng nóng cùng những làng mạc chập chùng khuất nẻo. Đi thêm chút nữa, những đụn cát cao lượn lờ theo vòng bánh xe lăn. Đồi cát trải rộng hàng chục cây số như mời gọi khách lữ hành dừng chân làm một chuyến leo đồi thú vị. Thú vị thật, bước chân ta chìm lún trong những hạt cát chất chồng không kết nối. Nó len vào giày như níu kéo ta ở lại với trần gian. Nhưng một khi quyết tâm vượt lên, là ta đã lên tới thiên đàng. Đúng là cõi tiên. Những ngọn đụn cát gợn sóng với nhiều hình thù khác nhau chập chùng hiện ra trước mắt. Càng ngắm càng mê say vì gió khiến đồi cát biến dạng liên tục, đẹp ảo huyền như trò ảo thuật. Chính vì vậy mà người ta gọi nó là đồi cát bay. Tiện tay hốt nắm cát. Trới đất, sao mà mịn vậy. Như bột. Cát, có tới 18 màu. Đã đời hơn là ta thấy cảm giác mạnh trong trò chơi trượt cát. Mướn tấm nhựanho nhỏ, chân để một đầu, ngồi ngửa, hai tay níu sợi dây dính đầu tấm nhựa, từ trên đỉnh đồi ta thả mình xuống dốc. Tấm nhựa “xé cát” đưa ta lao vù vù xuống, như bay, khoái thiệt. Điều ai cũng ngạc nhiên là bên cạnh đồi cát có hai bàu nước: Bàu Ông và Bàu Bà, gọi chung là Bàu Trắng. Mỗi bàu sâu khoảng 19m, nước ngọt. rất hấp dẫn…. Từ đồi cát bay (còn gọi đồi hồng) đi bộ xuống biển. Nước trong xanh với những lượn sóng bạc đầu ùa bờ. Hòa mình trong những ngọn sóng ấy, bao nhọc mệt đường xa như tiêu biến.
Xe đưa ta xuyên qua hai hàng dừa cao vút. Biển bên trái. Bao la là biển với những chiếc thuyền dập dềnh neo đậu trong vịnh Mũi Né đẹp xinh. Tương truyền, Mũi Né là một mũi biển mà dân chài lưới xưa kia mỗi khi gặp bão thường đến đây trú náu (“né”). Tuy nhiên có người nói nguồn gốc tên gọi Mũi Né xuất phát từ một truyền thuyết khác. Xưa kia, công chúa Chuột, còn gọi là Né, của vua Chăm, năm 16 tuổi bị bệnh nan y, xây dựng am để tu hành tại Hòn Rơm, được dân địa phương gọi là Bà Né. Lâu dần, người ta đọc trại là Nà Né rồi thành Mũi Né đến ngày nay.
Lại êm ả lướt qua con đường rợp mát bóng dừa lả ngọn trong gió đại dương. Chợt nhớ năm xưa con đường này đẹp hết hồn. Màu đất đỏ nền đường như ánh lên trong sắc xanh mát của hai hàng dừa giao ngọn, hun hút theo vệt bánh xe qua. Còn bây giờ là con đường nhựa rộng lớn với những resort, khách sạn ken đầy hai bên.
Ghé một khách sạn nghỉ. Chiều xuống. Ngồi thư thả bên bờ biển nhìn những chiếc thuyền thúng lênh đênh đánh bắt cá. Kêu ngoắc. Mua mớ cá đối. Những con cá tươi xanh nằm trên bếp than hồng, trong chốc lát trở thành món ngon chấm muối ớt. Mặt trời đỏ lựng chìm dần xuống đại dương xanh thẫm. Biển lấp lánh như có hào quang. Cùng bè bạn nhâm nhi ly rượu ấm ngọn gió trùng khơi với đặc sản xứ này là gỏi cá mai trong suốt cuốn bánh tráng rau thơm, ốc hương giòn lạnh trong răng, cá gáy chiên chấm nước mắm Phan Thiết giằm ớt cay tê mê thần khẩu…
Ngủ một đêm, sáng dậy, đi chợ Mũi Né. Chợ quê rộn rã nhóm với nhiều nông hải sản. Cá là cá. Khô là khô. Củ sắn còn nguyên lá cột thành bó ngộ nghĩnh. Đặc biệt, nguyên một con heo rừng xả thịt bày trên miếng vải nhựa. Heo rừng thứ thiệt vì da “tua tủa” những chân lông. Đặc biệt là bánh ướt. Bánh được tráng từng tấm bự bằng bột gạo rắc hành lá xắt nhỏ. Thưởng thức theo kiểu địa phương chỉ ăn với nước mắm chanh ớt, mỗi dĩa một bánh. Điểm tâm no nê bụng dạ 10 dĩa chỉ có 10.000 đồng. Còn ăn kiểu Bắc thì thêm chả quế, giò chả, “sang trọng” hơn, tất nhiên giá tiền phải cao hơn.
Trên đường về thành phố Phan Thiết, nhìn bên phải thấy nhấp nhô những ngôi nhà tráng lệ trên triền đồi cao. Khu biệt thự Mũi Né. Ghé vào, cho thấy đây là khu nhà cao cấp muốn ở phải có rất nhiều tiền, vì các bảng chỉ dẫn đều dùng toàn chữ Anh. Trong khu có sân gôn. Đứng tại đây có thể thấy biển và thấy cả đồi hồng cái thấp cái cao nối nhau chạy dài tới vô tận.
Lượn lờ đèo dốc, xe đi ngang ngọn đồi Bà Nà với ba ngôi tháp Chăm được xây dựng từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 9. Tháp lớn nhất cao 15m thờ thần Shiva, có bộ Linga – Yoni bằng đá đen nguyên khối. Gần tháp này là tháp thờ thần Lửa và tháp thờ thần Bò Nandin cách đó khoảng 50m. Cả hai tháp này thấp hơn và bị hư hỏng khá nhiều. Các nhà khảo cổ khi khảo sát đã thấy trong khu vực này có nền móng của một ngôi đền với nhiều tầng bậc đã bị sụp đổ. Đó là ngôi đền thờ công chúa Pôshanư, con gái vua Para Chanh. Theo truyền thuyết, công chúa Pôshanư ngoài sắc đẹp tuyệt vời còn là người đã ra công dạy làm các nghề: cá, dệt vải, gốm... cho dân Champa ở Pajai, tức Phú Hài (TP Phan Thiết) ngày nay. Vì vậy, khi công chúa qua đời, người ta xem như thần linh, như Bà Chúa Xứ, Bà Thiên Hậu, và lập đền thờ để tưởng nhớ công đức Bà. Khoảng tháng 10 Dương lịch hằng năm, nơi đây diễn ra lễ hội Katê để cúng thần linh, tổ tiên, cầu mưa thuận gió hòa, ngoài việc tắm bộ tượng Linga – Yoni còn dâng y phục cho Bà. Lễ hội đông vui với sự tham dự của đồng bào Chăm địa phương cùng du khách khắp nơi. Tiếng trống Baranưng, tiếng kèn Saranai rộn ràng khiến những diệu múa của các cô thiếu nữ mặc áo váy đẹp càng thêm uyển chuyển, hấp dẫn. Cụm 3 tháp Pôshanư đã được công nhận là di tích cấp quốc gia từ năm 1991.
Từ cụm tháp Pôshanư đi lên nơi cao nhất của ngọn đồi Bà Nà là đến phế tích Lầu Ông Hoàng. Lầu Ông Hoàng là nơi được Hàn Mặc Tử nhắc đến trong bài thơ “Phan Thiết, Phan Thiết”: “Ta lang thang tìm tới chốn Lầu Trăng/Lầu Ông Hoàng người thiên hạ đồn vang/Nơi đã khóc đã yêu thương da diết”. Đó là nơi Hàn Mặc Tử đã cùng Mộng Cầm tìm đến trong thời gian hai người yêu nhau. Lên đồi Bà Nà, ta nên đi theo con đường đá sỏi, mới thích thú cảm nhận được mấy câu hát: “Đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa. Lầu Ông Hoàng đó thuở nao chân Hàn Mặc Tử đã qua...” của Trần Thiện Thanh. Từ Lầu Ông Hoàng, phóng tầm mắt, ta thấy một phía biển xanh, một phía núi cao, phía kia là thành phố Phan Thiết xinh đẹp. Nếu đến đây vào lúc bình minh, hoặc chiều tà ta sẽ có dịp chiêm ngắm cảnh mặt trời mọc trên biển và cảnh hoàng hôn lãng mạn chìm khuất sau dãy núi xa xanh. Cảm xúc dâng tràn.
Xe đưa ta xuyên qua hai hàng dừa cao vút. Biển bên trái. Bao la là biển với những chiếc thuyền dập dềnh neo đậu trong vịnh Mũi Né đẹp xinh. Tương truyền, Mũi Né là một mũi biển mà dân chài lưới xưa kia mỗi khi gặp bão thường đến đây trú náu (“né”). Tuy nhiên có người nói nguồn gốc tên gọi Mũi Né xuất phát từ một truyền thuyết khác. Xưa kia, công chúa Chuột, còn gọi là Né, của vua Chăm, năm 16 tuổi bị bệnh nan y, xây dựng am để tu hành tại Hòn Rơm, được dân địa phương gọi là Bà Né. Lâu dần, người ta đọc trại là Nà Né rồi thành Mũi Né đến ngày nay.
Lại êm ả lướt qua con đường rợp mát bóng dừa lả ngọn trong gió đại dương. Chợt nhớ năm xưa con đường này đẹp hết hồn. Màu đất đỏ nền đường như ánh lên trong sắc xanh mát của hai hàng dừa giao ngọn, hun hút theo vệt bánh xe qua. Còn bây giờ là con đường nhựa rộng lớn với những resort, khách sạn ken đầy hai bên.
Ghé một khách sạn nghỉ. Chiều xuống. Ngồi thư thả bên bờ biển nhìn những chiếc thuyền thúng lênh đênh đánh bắt cá. Kêu ngoắc. Mua mớ cá đối. Những con cá tươi xanh nằm trên bếp than hồng, trong chốc lát trở thành món ngon chấm muối ớt. Mặt trời đỏ lựng chìm dần xuống đại dương xanh thẫm. Biển lấp lánh như có hào quang. Cùng bè bạn nhâm nhi ly rượu ấm ngọn gió trùng khơi với đặc sản xứ này là gỏi cá mai trong suốt cuốn bánh tráng rau thơm, ốc hương giòn lạnh trong răng, cá gáy chiên chấm nước mắm Phan Thiết giằm ớt cay tê mê thần khẩu…
Trên đường về thành phố Phan Thiết, nhìn bên phải thấy nhấp nhô những ngôi nhà tráng lệ trên triền đồi cao. Khu biệt thự Mũi Né. Ghé vào, cho thấy đây là khu nhà cao cấp muốn ở phải có rất nhiều tiền, vì các bảng chỉ dẫn đều dùng toàn chữ Anh. Trong khu có sân gôn. Đứng tại đây có thể thấy biển và thấy cả đồi hồng cái thấp cái cao nối nhau chạy dài tới vô tận.
Lượn lờ đèo dốc, xe đi ngang ngọn đồi Bà Nà với ba ngôi tháp Chăm được xây dựng từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 9. Tháp lớn nhất cao 15m thờ thần Shiva, có bộ Linga – Yoni bằng đá đen nguyên khối. Gần tháp này là tháp thờ thần Lửa và tháp thờ thần Bò Nandin cách đó khoảng 50m. Cả hai tháp này thấp hơn và bị hư hỏng khá nhiều. Các nhà khảo cổ khi khảo sát đã thấy trong khu vực này có nền móng của một ngôi đền với nhiều tầng bậc đã bị sụp đổ. Đó là ngôi đền thờ công chúa Pôshanư, con gái vua Para Chanh. Theo truyền thuyết, công chúa Pôshanư ngoài sắc đẹp tuyệt vời còn là người đã ra công dạy làm các nghề: cá, dệt vải, gốm... cho dân Champa ở Pajai, tức Phú Hài (TP Phan Thiết) ngày nay. Vì vậy, khi công chúa qua đời, người ta xem như thần linh, như Bà Chúa Xứ, Bà Thiên Hậu, và lập đền thờ để tưởng nhớ công đức Bà. Khoảng tháng 10 Dương lịch hằng năm, nơi đây diễn ra lễ hội Katê để cúng thần linh, tổ tiên, cầu mưa thuận gió hòa, ngoài việc tắm bộ tượng Linga – Yoni còn dâng y phục cho Bà. Lễ hội đông vui với sự tham dự của đồng bào Chăm địa phương cùng du khách khắp nơi. Tiếng trống Baranưng, tiếng kèn Saranai rộn ràng khiến những diệu múa của các cô thiếu nữ mặc áo váy đẹp càng thêm uyển chuyển, hấp dẫn. Cụm 3 tháp Pôshanư đã được công nhận là di tích cấp quốc gia từ năm 1991.
Từ cụm tháp Pôshanư đi lên nơi cao nhất của ngọn đồi Bà Nà là đến phế tích Lầu Ông Hoàng. Lầu Ông Hoàng là nơi được Hàn Mặc Tử nhắc đến trong bài thơ “Phan Thiết, Phan Thiết”: “Ta lang thang tìm tới chốn Lầu Trăng/Lầu Ông Hoàng người thiên hạ đồn vang/Nơi đã khóc đã yêu thương da diết”. Đó là nơi Hàn Mặc Tử đã cùng Mộng Cầm tìm đến trong thời gian hai người yêu nhau. Lên đồi Bà Nà, ta nên đi theo con đường đá sỏi, mới thích thú cảm nhận được mấy câu hát: “Đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa. Lầu Ông Hoàng đó thuở nao chân Hàn Mặc Tử đã qua...” của Trần Thiện Thanh. Từ Lầu Ông Hoàng, phóng tầm mắt, ta thấy một phía biển xanh, một phía núi cao, phía kia là thành phố Phan Thiết xinh đẹp. Nếu đến đây vào lúc bình minh, hoặc chiều tà ta sẽ có dịp chiêm ngắm cảnh mặt trời mọc trên biển và cảnh hoàng hôn lãng mạn chìm khuất sau dãy núi xa xanh. Cảm xúc dâng tràn.